+86 021 5155-0306
Ngôn ngữ:  

Bình luận buổi sáng SMM về kim loại cơ bản SHFE ngày 11 tháng 9

  • Th09 11, 2024, at 9:48 am
  • SMM
Đêm qua, đồng LME mở cửa ở mức 9,068 USD/tấn, ban đầu đạt mức cao 9,086 USD/tấn trước khi giảm trong suốt phiên, chạm mức thấp 8,983 USD/tấn giữa phiên, sau đó hồi phục nhẹ về cuối phiên và kết thúc ở mức 9,019 USD/tấn, giảm 0,85%.

THƯỢNG HẢI, ngày 11 tháng 9 (SMM) –

Đồng

Tối qua, đồng LME mở cửa ở mức 9,068 USD/tấn, ban đầu đạt mức cao 9,086 USD/tấn trước khi giảm trong suốt phiên, chạm mức thấp 8,983 USD/tấn giữa phiên, sau đó hồi phục nhẹ về cuối phiên và kết thúc ở mức 9,019 USD/tấn, giảm 0,85%. Khối lượng giao dịch đạt 15,000 lô, và lãi suất mở là 281,000 lô. Qua đêm, hợp đồng đồng SHFE 2410 giao dịch nhiều nhất mở cửa và đạt đỉnh ở mức 72,870 nhân dân tệ/tấn, ban đầu giảm xuống mức thấp 72,250 nhân dân tệ/tấn, sau đó dao động trong biên độ hẹp và cuối cùng đóng cửa ở mức 72,510 nhân dân tệ/tấn, giảm 0,47%. Khối lượng giao dịch đạt 45,000 lô, và lãi suất mở là 155,000 lô. Về mặt vĩ mô, OPEC đã giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu thô toàn cầu cho năm nay và năm sau xuống còn 2,03 triệu thùng/ngày và 1,74 triệu thùng/ngày, lần lượt, làm lu mờ lo ngại về nguồn cung do Bão nhiệt đới Francine gây ra và dẫn đến sự giảm mạnh của giá dầu quốc tế, kéo theo sự giảm giá của đồng. Về cơ bản, phía cung, do chênh lệch giá giữa hợp đồng tháng trước và tháng sau chuyển sang cấu trúc lùi, các nhà giao dịch thể hiện sự sẵn sàng bán mạnh mẽ. Ngoài ra, với sự nhập khẩu đáng kể của đồng thủy điện và đồng không đăng ký, nguồn cung đồng cathode tăng. Phía tiêu thụ, khi giá đồng dao động tăng ngày hôm qua, các doanh nghiệp hạ nguồn trở nên thận trọng trong việc tích trữ, chủ yếu bổ sung hàng khi cần thiết. Tuy nhiên, chỉ còn ba ngày làm việc trước kỳ nghỉ Tết Trung Thu, tiêu thụ dự kiến sẽ tăng. Về giá cả, thị trường vẫn lo lắng trước khi dữ liệu lạm phát của Mỹ được công bố tối nay, và giá đồng dự kiến sẽ tiếp tục dao động ở mức thấp.

Nhôm

Hợp đồng nhôm SHFE 2410 giao dịch nhiều nhất mở cửa ở mức 19,350 nhân dân tệ/tấn qua đêm, đạt đỉnh 19,385 nhân dân tệ/tấn và mức thấp 19,275 nhân dân tệ/tấn, và đóng cửa ở mức 19,310 nhân dân tệ/tấn, giảm 80 nhân dân tệ/tấn (-0,41%). Vào thứ Ba, nhôm LME mở cửa ở mức 2,364 USD/tấn, với mức cao 2,375 USD/tấn và mức thấp 2,332,5 USD/tấn, đóng cửa ở mức 2,342 USD/tấn, giảm 20,5 USD/tấn (-0,87%).

Tóm tắt: Về mặt vĩ mô, việc cắt giảm lãi suất của Fed Mỹ vào tháng 9 gần như chắc chắn, Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy tiêu dùng, và tình hình chiến tranh nóng tạo ra các biến số mới. Về cơ bản, nguồn cung ở nước ngoài trải qua cắt giảm sản xuất trong khi mùa tiêu thụ cao điểm thúc đẩy nhu cầu. Do đó, tồn kho xã hội bắt đầu giảm. Trong ngắn hạn, giá nhôm có thể dao động tăng do các yếu tố cơ bản, nhưng tính bền vững của sự phục hồi tiêu thụ và thay đổi trong khả năng cung cấp cần được quan sát trong tương lai.

Chì

Qua đêm, chì LME mở cửa ở mức 1,952,5 USD/tấn. Trong phiên châu Á, nó dao động giảm xuống 1,949 USD/tấn. Khi vào phiên châu Âu, nó tăng lên mức cao 1,967,5 USD/tấn trước khi giảm trở lại, đóng cửa ở mức 1,955 USD/tấn, giảm 3 USD/tấn, giảm 0,15%.

Qua đêm, hợp đồng chì SHFE 2410 giao dịch nhiều nhất mở cửa ở mức 16,410 nhân dân tệ/tấn, ban đầu giảm xuống 16,345 nhân dân tệ/tấn trước khi hồi phục lên mức cao 16,545 nhân dân tệ/tấn. Cuối cùng, nó đóng cửa ở mức 16,415 nhân dân tệ/tấn, tăng 40 nhân dân tệ/tấn, tăng 0,24%.

Về mặt vĩ mô, chỉ số đô la Mỹ ổn định khi thị trường chờ đợi dữ liệu lạm phát quan trọng và diễn biến trong cuộc bầu cử Mỹ. Về cơ bản, kỳ vọng bảo trì tại các nhà máy luyện chì chính đã được thực hiện, và sự nhiệt tình sản xuất và vận chuyển của các nhà máy luyện chì thứ cấp suy yếu nghiêm trọng. Nhiều nhà sản xuất chì tinh luyện thứ cấp giữ giá và không bán. Đầu tháng 9, đơn đặt hàng từ một số doanh nghiệp hạ nguồn cải thiện nhẹ, và nhu cầu mua sắm thiết yếu tăng dần so với tháng 8. Cần chú ý thêm để xem liệu hiệu suất hoạt động hạ nguồn có thúc đẩy giá chì ngừng giảm hay không.

Kẽm

Qua đêm, kẽm LME mở cửa ở mức 2,736 USD/tấn. Trong phiên sáng, kẽm LME dao động hẹp quanh đường trung bình hàng ngày, đạt đỉnh 2,740 USD/tấn vào đầu phiên. Sau đó, nó giảm nhanh vào giữa ngày, dao động gần 2,695 USD/tấn và chạm mức thấp 2,679 USD/tấn trong giai đoạn này. Đến cuối phiên, kẽm LME hồi phục nhẹ gần đường trung bình hàng ngày, cuối cùng đóng cửa ở mức 2,707 USD/tấn, giảm 24,5 USD/tấn hoặc 0,90%. Khối lượng giao dịch giảm xuống 9,889 lô, và lãi suất mở tăng 2,521 lô lên 235,000 lô. Qua đêm, kẽm LME ghi nhận một cây nến giảm với đường trung bình động 5 ngày trên làm kháng cự. Tồn kho kẽm LME giảm 2,100 tấn xuống 234,450 tấn, giảm 0,89%. Thị trường vẫn đang chờ đợi dữ liệu lạm phát Mỹ tiếp theo để tìm manh mối về mức độ cắt giảm lãi suất trong tương lai. Chỉ số đô la Mỹ dao động ở mức cao, giữ kẽm LME ở mức thấp.

Qua đêm, hợp đồng kẽm SHFE 2410 giao dịch nhiều nhất mở cửa ở mức 22,760 nhân dân tệ/tấn. Sau khi mở cửa, kẽm SHFE giảm ngắn xuống mức thấp 22,565 nhân dân tệ/tấn. Sau đó, nó hồi phục từ mức thấp, đạt mức cao 22,820 nhân dân tệ/tấn, và sau đó duy trì xu hướng dao động trên đường trung bình hàng ngày, cuối cùng đóng cửa ở mức 22,725 nhân dân tệ/tấn, giảm 65 nhân dân tệ/tấn hoặc 0,29%. Khối lượng giao dịch tăng lên 103,000 lô, và lãi suất mở tăng 1,423 lô lên 89,021 lô. Qua đêm, kẽm SHFE ghi nhận một cây nến giảm với đường trung bình động 10 ngày trên làm kháng cự. Tâm lý vĩ mô không thay đổi, và mô hình cung cầu yếu tiếp tục về cơ bản, với tiêu thụ kẽm hạ nguồn vẫn trì trệ. Kẽm SHFE dao động, chú ý đến cải thiện tiêu thụ trong nước tiếp theo.

Thiếc

Trong phiên đêm qua, hợp đồng thiếc SHFE giao dịch nhiều nhất đóng cửa ở mức 250,590 nhân dân tệ/tấn, giảm 1,640 nhân dân tệ/tấn, giảm 0,65%, với giá cao nhất ở mức 251,930 nhân dân tệ/tấn và thấp nhất ở mức 248,540 nhân dân tệ/tấn.

Trong phiên sáng hôm qua, báo giá từ các công ty giao dịch cho các thương hiệu thiếc thỏi trong nước không thay đổi nhiều so với những ngày gần đây. Thiếc thỏi thương hiệu nhỏ được báo giá với mức chênh lệch 0-500 nhân dân tệ/tấn so với hợp đồng SHFE 2410, các thương hiệu giao hàng với mức chênh lệch 200-700 nhân dân tệ/tấn, thương hiệu Thiếc Vân Nam với mức chênh lệch 200-800 nhân dân tệ/tấn, và các thương hiệu thiếc nhập khẩu với mức chiết khấu 300-200 nhân dân tệ/tấn so với hợp đồng SHFE 2410. Sáng hôm qua, giá thiếc dao động trong biên độ hẹp, với hầu hết các doanh nghiệp hạ nguồn giữ thái độ chờ đợi. Tuy nhiên, trong phiên đêm, giá thiếc giảm, khiến một số doanh nghiệp hạ nguồn thực hiện bổ sung hàng khiêm tốn hoặc đặt hàng giá thấp. Hầu hết các doanh nghiệp giao dịch báo cáo giao dịch lẻ tẻ, với một số ít giao dịch một xe tải đầy. Nhìn chung, hoạt động trong thị trường giao ngay phiên đêm tăng.

Niken

Ngày 10 tháng 9, niken Jinchuan được báo giá với mức chênh lệch 1,700-1,900 nhân dân tệ/tấn, trung bình 1,800 nhân dân tệ/tấn, tăng 100 nhân dân tệ/tấn so với ngày giao dịch trước đó. Niken Norilsk được báo giá với mức chiết khấu 300 nhân dân tệ/tấn đến mức chênh lệch 100 nhân dân tệ/tấn, trung bình chiết khấu 200 nhân dân tệ/tấn, tăng 50 nhân dân tệ/tấn so với ngày giao dịch trước đó. Vào sáng ngày 10 tháng 9, thị trường tương lai cho thấy xu hướng giảm biến động, nhưng mức chênh lệch giao ngay tổng thể tăng nhẹ so với ngày làm việc trước đó. Giá niken briquette là 119,300-119,600 nhân dân tệ/tấn, giảm 1,150 nhân dân tệ/tấn so với ngày giao dịch trước đó. Chênh lệch giá giữa niken briquette và niken sulphate khoảng 8,050 nhân dân tệ/tấn (giá niken sulphate cao hơn 8,050 nhân dân tệ/tấn so với giá niken briquette).

  • Ngành công nghiệp
  • Đồng
  • Nhôm
  • Chì
  • Kẽm
  • Thiếc
  • Niken
Trò chuyện trực tiếp qua WhatsApp